Thế khó của cân bằng

Thế khó của cân bằng

Nền kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với những “cơn gió ngược” mạnh vào năm 2023 ở cả bên ngoài và bên trong, theo nhận định của ông Andrea Coppola - Chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam.

Nhận định trên đi cùng với thế khó của các nhà hoạch định chính sách trong cân bằng các mục tiêu. Song, như đã thể hiện trong đại dịch COVID-19, trong năm 2022 đầy thách thức, ông Andrea Coppola nhấn mạnh đến những động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam.

WB đánh giá thế nào về kinh tế Việt Nam trong năm 2022 và theo ông đâu là động lực chính để đạt được kết quả năm qua?

Việt Nam đã có kết quả kinh tế vĩ mô tốt trong năm 2022, một kết quả đáng chú ý, đặc biệt khi xét đến tình trạng suy thoái kinh tế ở các quốc gia khác trên thế giới.

Tuy nhiên, chúng ta cần thừa nhận rằng 2023 sẽ là một năm khó khăn hơn rất nhiều và chúng tôi dự báo nền kinh tế sẽ tăng trưởng chậm lại trong những tháng tới, do triển vọng kinh tế toàn cầu ảm đạm và điều này sẽ ảnh hưởng đến Việt Nam.

Kết quả kinh tế tích cực của Việt Nam trong năm 2022 được thúc đẩy bởi 4 yếu tố chính.

Thứ nhất, đó là động lực xuất khẩu, vốn rất mạnh trong quá khứ và đã cho thấy khả năng phục hồi cả trong thời gian khủng hoảng do COVID-19 khi xuất khẩu sản phẩm chế biến chế tạo là động lực chính của tăng trưởng GDP. Mặc dù chúng tôi cho rằng tăng trưởng xuất khẩu sẽ chậm lại do nhu cầu toàn cầu đang suy yếu, xuất khẩu sẽ tiếp tục đóng góp vào tăng trưởng trong thời gian tới.

Động lực tăng trưởng thứ hai là nhu cầu trong nước. Tiêu dùng trong nước và doanh số bán lẻ là động lực tăng trưởng mạnh mẽ của đất nước trong năm qua. Nhu cầu nội địa dự kiến sẽ bị ảnh hưởng bởi lạm phát trong nước gia tăng trong thời gian tới nhưng sẽ tiếp tục đóng góp tích cực vào tăng trưởng năm 2023.

Thứ ba, chúng ta phải thừa nhận rằng đầu tư tư nhân đóng một vai trò quan trọng. Đơn cử như 11 tháng đầu năm 2022, giải ngân vốn FDI tăng hơn 15% so với cùng kỳ năm 2021.

Cuối cùng, chúng ta cần xem xét thực tế là đại dịch COVID đã tác động mạnh mẽ đến Việt Nam trong năm 2021, đặc biệt là trong quý 3 của năm. Do đó, hiệu quả kinh tế mạnh mẽ trong năm 2022 cũng là kết quả của hiệu ứng xuất phát điểm thấp.

Ở trên ông đã có một số gợi mở về năm 2023, vậy tình hình kinh tế thế giới và những tác động gì đối với Việt Nam sẽ cần chú ý, thưa ông?

Hiện nay đang là một thời điểm đầy thách thức đối với nền kinh tế toàn cầu. Đại dịch COVID đã gây ra những tổn thất lâu dài và sự kết hợp của nhiều cú sốc liên quan đang kéo nền kinh tế toàn cầu đi xuống và dự kiến sẽ dẫn đến sự giảm tốc mạnh vào năm 2023.

Ba lực cản mạnh đã và đang tác động đến kinh tế toàn cầu trong năm 2022 và có thể tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong năm 2023: áp lực lạm phát dai dẳng, điều kiện tài chính xấu đi, suy thoái kinh tế ở Trung Quốc và các nền kinh tế lớn khác. Trong bối cảnh đó, triển vọng kinh tế toàn cầu rất u ám. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu dự kiến sẽ giảm tốc mạnh và các cú sốc kinh tế bổ sung, chẳng hạn như thắt chặt tiền tệ mạnh hơn dự kiến, có thể dẫn đến suy thoái kinh tế toàn cầu.

Trong bối cảnh đó, nền kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với những “cơn gió ngược” mạnh vào năm 2023 ở cả bên ngoài và bên trong.

Rủi ro bên ngoài bao gồm áp lực lạm phát toàn cầu dai dẳng, tiếp tục thắt chặt tiền tệ và suy thoái kinh tế nghiêm trọng hơn dự kiến của các đối tác thương mại chính của Việt Nam, cũng như sự gián đoạn liên tục trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Trong nước, lạm phát cao hơn và sự không chắc chắn liên quan đến rủi ro cao trong lĩnh vực tài chính có thể ảnh hưởng đến triển vọng tăng trưởng.

Vậy ông có khuyến nghị gì cho Việt Nam để ứng xử với những thách thức đó?

Bối cảnh toàn cầu có đặc trưng là sự không chắc chắn và rủi ro hiện nay đặt các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam vào thế khó trong việc cân bằng giữa nhu cầu tiếp tục hỗ trợ chính sách để củng cố quá trình phục hồi với nhu cầu kiềm chế lạm phát và rủi ro tài chính mới nổi.

Mức độ không chắc chắn cao sẽ đòi hỏi tổ hợp chính sách phải thích ứng với hoàn cảnh thay đổi. Nếu Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục tăng lãi suất và áp lực tỷ giá vẫn còn, cơ quan quản lý tiền tệ Việt Nam có thể cân nhắc cho phép tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn nữa.

Với áp lực tỷ giá hối đoái dai dẳng, việc bán ngoại tệ trực tiếp có thể được sử dụng rất thận trọng để duy trì dự trữ ngoại hối. Trong trường hợp trượt giá nhanh hơn dẫn đến lạm phát gia tăng đáng kể và kỳ vọng lạm phát tăng lên, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có thể xem xét sử dụng lại lãi suất tham chiếu. Tuy nhiên, dư địa chính sách hạn chế do lãi suất đã ở mức cao. Phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa sẽ giúp hạn chế tối đa việc tăng thêm lãi suất.

Các cơ quan chức năng có thể xem xét hạn chế chi tiêu công đồng thời ưu tiên chi cho phát triển nguồn nhân lực và đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư công đã được chọn có tác động dự kiến cao nhất đến tăng trưởng kinh tế. Quản lý đầu tư công hiệu quả có ý nghĩa rất quan trọng đối với thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh lạm phát.

Đối với chính sách trong lĩnh vực tài chính, để giải quyết những thách thức về thanh khoản trong ngành ngân hàng, khi một số ngân hàng trở nên dễ bị tổn thương hơn và cần hỗ trợ, NHNN có thể giúp khôi phục niềm tin thông qua cung cấp hỗ trợ thanh khoản khẩn cấp với điều kiện là các ngân hàng phải có kế hoạch khôi phục khả năng thanh khoản thỏa đáng, không phụ thuộc thường xuyên vào nguồn vốn vay của NHNN.

Trong trung hạn, có thể cần hoàn thiện khung xử lý ngân hàng của Việt Nam để tiếp tục nâng cao sự ổn định tài chính và tăng cường khung giám sát hợp nhất để theo dõi và đánh giá hiệu quả rủi ro hệ thống trên các thị trường, bao gồm ngân hàng, thị trường vốn và các lĩnh vực rủi ro cao như bất động sản.

Cám ơn ông về những chia sẻ.

Theo AP Vững vàng phía trước

Đọc tiếp

Chat với BizLIVE